Cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông do Học
viện Ngoại giao và Hội Luật gia tổ chức được nhiều người xem
như một cử chỉ mạnh bạo của Việt Nam về ngoại giao nhằm thúc
đẩy khuynh hướng đa phương hóa và quốc tế hóa tranh chấp Biển
Đông.
Tuy nhiên, Hà Nội còn cả núi
việc phải làm để có thể huy động trợ giúp quốc tế, biến cử
chỉ này thành hành động khẳng định chủ quyền, nhất là khi
Việt Nam nhận ghế Chủ tịch khối Asean vào năm tới.
Quá
trình chuẩn bị đi đến Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần thứ
nhất (26/11/2009-27/11/2009) cho thấy một sự dè dặt bớt dần
trong cách hành xử của Hà Nội: từ chỗ cho tới tận mấy ngày
trước khi sự kiện diễn ra báo chí trong nước vẫn không được
đưa tin, đến việc bật đèn xanh để ngay sau ngày thứ nhất của
hội thảo, hàng chục bài báo xuất hiện trên các đài báo
chính phủ; rồi đến bài tham luận của diễn giả Hoàng Việt từ
TP Hồ Chí Minh trong ngày hội thảo thứ hai chỉ trích thẳng
tham vọng bành trướng của Trung Quốc khiến học giả nước này
phải lên tiếng phản bác ...
Giáo sư
Carlyle Thayer, chuyên gia Việt Nam nổi tiếng từ Học viện Quốc
phòng Úc châu, nói bằng những hành động như cuộc hội thảo
này, Việt Nam đã tiến tới vai trò thứ chính trong tiến trình
xem xét các bất đồng và tranh chấp ở Biển Đông.
Và
như vậy, Hà Nội đã đặt mình ở thế mặt đối mặt với Trung
Quốc, nước chủ bài trong thế cờ vô cùng phức tạp tại khu vực
giàu tài nguyên và cơ hội nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ to
lớn này.
Bàn tay sắt ở Biển Đông
Cách ứng xử của Trung Quốc mang tính quyết định trong tranh chấp Biển Đông.
Ngoài
một thời gian vào cuối những năm 1990, khi Bắc Kinh có chính
sách tạm gọi là mềm dẻo hơn và các nước liên quan tranh chấp
chủ quyền tại Biển Đông có thể ký với nhau một Tuyên bố chung
về Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (DOC) vào năm 2002; Trung Quốc
đã quay lại đường lối ngày càng cứng rắn.
Nguyên
do có thể là vì một loạt yếu tố, như nhu cầu năng lượng trong
nước ngày càng gay gắt; lợi ích về dầu lửa và về các tuyến
hàng hải; và cả tinh thần dân tộc chủ nghĩa đang bùng cháy ở
trong nước.
GS Thayer cho rằng Việt Nam đang lãnh vai thứ chính trong cuộc chơi mới
Nghiên
cứu mới ra mang tựa đề "Tranh cãi Biển Đông: thêm nguy cơ, tăng
căng thẳng" (The South China Sea dispute: increasing stakes and rising
tension), của Clive Schofield và Ian Storey thuộc Quỹ Jamestown
(Tiến sỹ Storey cũng có mặt trong cuộc hội thảo ở Hà Nội),
phân tích rất rõ rằng bàn tay của Trung Quốc tại Biển Đông
càng trở nên mạnh mẽ hơn với quá trình hiện đại hóa hải quân.
Từ
giữa những năm 1990, quân đội Trung Quốc đã có thêm 12 tàu ngầm
hạng Kilo mà Việt Nam vẫn còn đang cân nhắc mua từ Nga với số
lượng ít hơn và Trung Quốc cũng đang tự mình đóng mới bốn
tàu ngầm khác kể cả tàu hạng Kim và hạng Thương có sử dụng
năng lượng hạt nhân; đồng thời loan báo tham vọng đóng hàng
không mẫu hạm.
Bắc Kinh còn cho thiết
lập căn cứ tàu ngầm tại đảo Hải Nam trấn ngữ Biển Đông, mà
quân đội Việt Nam đã được tổ chức tham quan để chứng kiến sự
hùng mạnh của nước láng giềng.
Các
động thái như thiết lập đơn vị hành chính, sách nhiễu, hành
hung ngư dân nước ngoài hay xua đuổi công ty dầu mỏ ngoại quốc
muốn làm ăn với Việt Nam trong vùng tranh chấp chỉ chứng tỏ
lập trường của Bắc Kinh, rằng Trung Quốc giữ "chủ quyền không
thể chối cãi" trong phần lớn khu vực Biển Đông.
Một
điều đáng chú ý là Trung Quốc dường như cố tình giảm nhẹ
tầm quan trọng của cuộc hội thảo mà Việt Nam mất công của để
dàn xếp.
Hãng thông tấn hàng đầu
của nước này, Tân Hoa Xã, vốn nhanh nhạy trong việc thu thập
các tin liên quan tới Trung Quốc, không có dòng nào nói về hội
thảo. Báo chí Trung Quốc cũng im tiếng.
Trong
số sáu học giả Hoa lục được cử tham gia hội thảo, không có ai
từ Quảng Tây là trung tâm hàng đầu nghiên cứu thời sự chính
sách liên quan tới Việt Nam.
Xem ra nước lớn này không mấy hào hứng với các cuộc chơi do người khác khởi xướng.
Dựa vào ai?
Thời
gian gần đây, Việt Nam không che dấu một số mục tiêu mà Hà Nội
mong muốn cùng các nước khác phấn đấu vươn tới, như đạt được
Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) để thay cho DOC và mang các
tranh chấp ra trước Tòa án Công lý Quốc tế, Tòa án Luật biển Quốc tế
và Cơ chế trọng tài quốc tế để xem xét.
Quy
tắc Ứng xử COC chỉ là một quyết định chính trị, chứ không
phải là một khung luật pháp. Tuân thủ nó hay không lại là một
câu chuyện khác.
Tiến sỹ Yann-Huei Song, Đại học Quốc gia Chung Hsing, Đài Loan
Để làm được việc đó, không thể thiếu cam kết của các nước liên quan.
Các
học giả tham gia hội thảo quốc tế về Biển Đông đã đề cập
khá nhiều tới vai trò của khối Asean và sự tham gia của các
quốc gia quan tâm, như Hoa Kỳ và Ấn Độ.
Phản
ứng của các nước Asean trong tranh chấp Biển Đông từ trước tới
nay phải nói là yếu ớt và càng cho thấy sự bất lực của
khối này trong nhiều lĩnh vực, trong có giải quyết các xung
đột.
Ngoại trừ văn bản DOC ký năm
2002 mà thoạt tiên giúp giảm căng thẳng ít nhiều, quá trình
tìm kiếm giải pháp Biển Đông của Asean nhanh chóng rơi vào bế
tắc. Dưới áp lực của Trung Quốc, chủ đề Biển Đông thậm chí
còn không được nhắc tới trong nhiều cuộc hội họp khu vực, như
hội nghị thượng đỉnh gần đây nhất, tháng 10/2009.
Sở
dĩ Bắc Kinh có thể gây áp lực như vậy là vì các nước Asean,
vốn rời rạc trong liên hệ, còn bị chi phối của quan hệ kinh
tế với Trung Quốc.
Một số học giả nhắc tới vai trò của Hoa Kỳ và cho rằng Mỹ đang ngày càng quan tâm tới an ninh khu vực.
Luôn
khẳng định "không đứng về bên nào", nhưng Mỹ đã nhiều lần bày
tỏ quan ngại trước tình hình căng thẳng gia tăng tại Biển Đông
và ủng hộ giải pháp thương lượng cho các tranh chấp.
Cuộc hội thảo được tổ chức trong hai ngày 26/11-27/11
Tuy
nhiên số đông các nhà nghiên cứu thống nhất rằng quả bóng nằm
trong sân của Asean và Trung Quốc. Họ cho rằng các nước liên
quan đều nghiêng về giải pháp hòa bình, ngoại giao.
Tiến
sỹ Storey nói: "Điều cần nhất là Asean với tư cách của một
khối phải thẳng thắn đề cập vấn đề này với Trung Quốc."
Tiến
sỹ Yann-Huei Song từ Đai học Quốc gia Chung Hsing, Đài Loan, nói
với BBC rằng nhìn chung thì không thể nói là các nước riêng
lẻ thuộc Asean không có "ý chí chính trị" để giải quyết vấn
đề Biển Đông, nhưng mức độ cam kết thì khá khác nhau.
Ông nói: "Cứ đặt ra thang bậc từ một đến năm, thì có nước được hai-ba, có nước chỉ được một."
Chính
vì cam kết lỏng lẻo như vậy, theo Tiến sỹ Song, ngay cả khi
một bộ quy tắc COC có đạt được, thì hiệu quả của nó cũng
sẽ hạn chế.
"COC chỉ là một quyết
định chính trị, chứ không phải là một khung luật pháp. Tuân
thủ nó hay không lại là một câu chuyện khác."
|